Đọc hiểu Ngữ văn 11: Bộ câu hỏi đọc hiểu bài đẻ đất

Bộ câu hỏi đọc hiểu bài đẻ đất

Đọc ngữ liệu bên dưới và trả lời câu hỏi:

(Trích Đẻ đất đẻ nước – sử thi Mường)
Tóm tắt:
Thuở ấy, khi đất còn pạc lạc (xơ xác, rời rạc), nước còn pời lời (bùng nhùng), trời còn puổng luổng (mung lung), bỗng “mưa dầm mưa dãi”, nước ngập bao la núi đồi, 50 ngày nước mới rút, tự nhiên mọc lên một cây xanh có 90 cành, có một cành chọc trời, biến thành ông Thu Tha, bà Thu Thiên. Hai thần truyền lệnh làm ra đất, trời và muôn vật. Nhưng sau đó, trời nắng dữ dội 12 năm liền làm cho xơ xác. Thần Pổng Pêu ao ước có một trận mưa lớn. Tức thì mưa to gió lớn chín mười ngày đêm, nước ngập bao la. Bảy tháng sau, nước rút. Tiếp đó là quá trình hình thành vũ trụ, con người, xây dựng bản Mường và sáng tạo văn hoá… của đồng bào Mường ở buổi sơ khai.
Tác phẩm gồm nhiều rằn/rằng (đoạn), kể lại quá trình hình thành vũ trụ, hình thành con người. Phần được trích dẫn dưới đây là một trong hai rằn mở đầu của tác phẩm. Đẻ đất và Đẻ nước vốn là tên của hai rằn song “trong ý niệm của người Việt – Mường thì Đất – Nước còn mang ý nghĩa Tổ quốc, giống nòi, địa vực cư trú, nên tên của hai rắn này được dùng làm tên chung cho tác phẩm”.
đẻ đất ; trắc nghiệm đẻ đất ; đọc hiểu đẻ đất ; đẻ đất trắc nghiệm ; đẻ đất đọc hiểu
ĐẺ ĐẤT
Muốn ăn cơm phải tìm giống gieo mạ
Muốn ăn cá phải tát suối, tát ao
Muốn biết vì sao có đất đỏ, đất nâu
Phải bảo nhau ngôi nghe chuyện kể
Ngày xưa ngày ấy
Trông trời, trời bao la rộng rãi
Trông đất, đất vắng vẻ trống không
Đồn rằng: Có một năm mưa dầm mưa dãi
Nước vượt khỏi đồi U
Nước dâng tràn đồi Bái
Năm mươi ngày nước rút
Bảy mươi ngày nước xuôi
Mọc lên một cây xanh xanh
Có chín mươi cành
Cây chọc lên trời, lá xanh biết biết cựa
Thân trên mặt đất, thân cây biết rung
Trong tán trong cành có tiếng đàn bà con gái
Cành chọc trời là con đầu
Tên gọi ông Thu Tha
Cành bụng xung là con thứ hai
Tên gọi bà Thu Thiên
Hai ông bà nên đôi nên lứa
Truyền cho:
Con gà có cựa
Dây dưa biết leo
Tre pheo có gai, có ngọn
Con người biết nói
[…]
Khi đó dưới đất không còn rời rạc
Dưới nước không còn bùng nhùng
Trời không mung lung
Trông lên ngó xuống đã có nơi có chốn
Đã có
Lối đi xuống
Luồng muốn dậy đã có ngãnh
Cau muốn dậy đã có mo ne
Dây củ mài muốn dây leo vắt vẻo
Dây sẵn muốn dây néo buộc
Đã có nơi néo buộc
Con thác muốn dậy đã có con sao
Con sao muốn dậy, đã có trời sáng
Con nhà người muốn dậy, đã có em có anh
Đạo làm vua không tranh
Đạo làm người không cướp
Vua đã yêu, chúa đã chuộng
Đã có người vụng người tài
Đã có người trai người gái
Đồi bãi đã có thú to
Rừng thưa đã có chim nhỏ
Dưới nước
Đã đẻ con cá, con tôm
Đầu hôm đã sinh con rùa
Tối ngày đã sinh con rái
Dưới đất,
Cái gì cũng có
Gió ầm ầm đã nghe
Mưa le re đã thấy
Thứ nào muốn dậy đều nên thân nên hình
Đất đã có
Đất rộng thênh thang
Chuyện chưa kể nên một gang
Chuyện chưa kể sang một lẽ
Người già người trẻ
Lại nghe chuyện đến chuyện đi
Lại nghe chuyện xưa chuyện cũ
Người ở sướng, ăn ngon
Cũng có đứa khôn, thằng dại
Người khôn nghe kể lại
Thằng dại nghe vội nghe vàng
Phải chờ nghe thêm
Chuyện đẻ nước.

(Văn học dân gian, Tác phẩm dùng trong nhà trường, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2006)