Đọc hiểu Ngữ văn 10: Bộ câu hỏi đọc hiểu Kiều gặp Từ Hải

" KIỀU GẶP TỪ HẢI *
(Trích Truyện Kiều)
Lần thâu (1) gió mát, trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình (2) sang chơi.
Râu hùm, hàm én, mày ngài, (3)
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền (4) hơn sức, lược thao gồm tài.
Đội trời đạp đất ở đời,
Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông. (5)
Giang hồ quen thói vẫy vùng,
Gươm đàn (6) nửa gánh, non sông một chèo.
Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều
Tấm lòng nhi nữ (7) cũng xiêu anh hùng
Thiếp danh đưa đến lầu hồng
Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa
Từ rằng: “Tâm phúc tương cờ, (8)
Phải người trăng gió vật vờ hay sao? (9)
Bấy lâu nghe tiếng má đào(10),
Mắt xanh (11) chẳng để ai vào có không?
Một đời được mấy anh hùng,
Bõ chi cá chậu chim lồng (12) mà chơi!”
Nàng rằng: “Người dạy quá lời,
Thân này còn dám xem ai làm thường!
Chút riêng chọn đá thử vàng(13),
Biết đâu mà gởi can trường vào đâu?
Còn như vào trước ra sau(14),
Ai cho kén chọn vàng thau tại mình!”
Từ rằng: “Lời nói hữu tình,
Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên (15) quân.
Lại đây xem lại cho gần
Phỏng tin được một vài phần hay không?”
Thưa rằng: “Lượng cả bao dong,
Tấn Dương(16) được thấy mấy rồng có phen.
Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!”
Nghe lời, vừa ý gật đầu
Cười rằng: “Tri kỉ trước sau mấy người?
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung(17) nghìn tứ (18) cũng là có nhau!”
Hai bên ý hợp, tâm đầu,
Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân.
Chú thích: đọc hiểu Kiều gặp từ hải ; Lần thâu gió mát trăng thanh đọc hiểu
*Tên đoạn trích: Do GS.TS Trần Đình Sử đặt
Đoạn trích: Đây là đoạn trích kể lại sự việc: Khi bị bán vào lầu xanh lần thứ hai thì Kiều đã hoàn toàn bất lực, buông xuôi, vô vọng. Chính vào lúc đó, Từ Hải xuất hiện như là một giấc mơ làm đổi thay đời nàng.
(1) Lầu thâu: Ý nói hết ngày dài lại đêm thâu (Kiều đã ở lâu, trải nhiều ngày gió mát trăng thanh)
(2) Biên đình: Nơi biên thùy, ý nói nơi xa xôi
(3) Râu hùm, hàm én, mày ngài: Do các chữ yến hạm, hồ đầu, ngọa tàm my: hàm rộng như hàm chim én, đầu to như đầu hổ, lông mày to đậm cong như con tằm, là tướng người anh hùng
(4) Côn: Môn võ đánh gậy; Quyền: Môn võ đánh tay. Côn quyền: Chỉ nghề đánh võ
(5) Việt Đông: chỉ miền tỉnh Quảng Đông ngày nay
(6) Thơ Hoàng Sào (một lãnh tự nông dân khởi nghĩa đời Đường): Bán kiên cung kiếm băng thiên tủng, nhất trạo giang sơn tận địa duy (Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp cả gấm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông). Đàn: một loại cung bắn đạn tròn đi rất xa
(7) Nhi nữ: Người con gái
(8) Tâm phúc tương cờ: Lấy bụng dạ cùng hứa hẹn với nhau, ý nói muốn thực dụng với nhau
(9) Trăng gió vật vờ: Lăng nhăng, không nhất quyết một điều gì cả
(10) Má đào: Người con gái xinh đẹp
(11) Mắt xanh: Ý nói cả câu Thúy Kiều chưa có ai đáng để mắt đến phải không?
(12) Cá chậu chim lồng: Chỉ hạng người tầm thường cam chịu sống trong vòng giam hãm. Ý cả câu: Đời phần nhiều là hạng tầm thường, thì bõ chi mà chơi với họ
(13) Chọn đá thử vàng: Ý nói chọn người tri kỉ, chọn người tốt cũng như lấy đá thử vàng xem tốt hay xấu
(14) Vào trước ra sau: Ý nói đón người lối cửa trước, tiễn người lối cửa sau. Ý cả hai câu: Còn như việc đưa đón khách làng chơi, việc đó nàng không có quyền tự kén chọn
(15) Bình Nguyên quân: Tên Triệu Thắng, con Vũ Linh Vương nước Triều đời Chiến quốc hiệu Bình Nguyên quân, là người hiền thích tân khách, tính hào hiệp, trong nhà có đến mấy nghìn khách ăn. Ông làm tể tưởng cho Huệ Văn vương và Hiếu Thành vương, ba lần thôi không làm tể tướng, ba lần trở lại địa vị, được phong đất ở Đông Vũ thành (Sơ kỳ). Thơ Cao Thích (thời Đường). Vị trí can đảm hưởng thủy thì linh nhân khước ức Nguyên quân (Chẳng biết gan mặt hướng vào ai cho phải, khiến người lại nhớ Bình Nguyên quân). Đây nhân câu trên, Thúy Kiều nói: Biết đầu mà gói can trường vào đâu, nên Từ Hải lấy cầu Bình Nguyên quân mà đáp lại, cũng là có ý tự vì mình.
(16) Tấn Dương: tên đất, nay thuộc huyện Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, đường Cao Tổ từ đất Tấn Dương dấy binh đánh nhà Tùy dựng nghiệp đế. Ý cả câu: Thúy Kiều tin rằng có phen Từ Hải làm nên được nghiệp đế vương như Đường cao tổ.
(17) Muôn chung: Do chữ vạn chung. Chung là đồ dùng đong lường thời xưa ở Trung Quốc, đựng được 6 hộc 4 đầu. Các quan thời xưa ăn lương bằng thóc. Ăn lương đến muôn chung, tức là hàng quan khanh tướng.
(18) Nghìn tứ: Do chữ thiên tứ: nghìn cỗ xe đóng bốn ngựa, Có nghìn cỗ xe đóng bốn ngựa, tức là nói cảnh nhà quan quyền giàu sang
Thực hiện các câu hỏi đọc hiểu bài Kiều gặp Từ Hải
"